Trước hết, xin được nhắc đôi dòng về người anh hùng này. Khi Lê Mã Lương đang học cấp III là lúc đế quốc Mỹ ném bom đánh phá miền Bắc dữ dội, chiến trường miền Nam đang thời kì nước sôi lửa bỏng, cả nước dấy lên phong trào tòng quân đánh Mỹ. Là con liệt sĩ, thuộc diện ưu tiên được đi học ở nước ngoài và miễn nhập ngũ nhưng tháng 7/1967, chàng trai quê ở xã Trung Thành, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa vẫn xung phong đi bộ đội. Anh được biên chế vào đại đội 1, tiểu đoàn 4, trung đoàn 24, sư đoàn 304. Sau những ngày huấn luyện khẩn trương, tháng 12/1967 Lê Mã Lương được lệnh vào chiến trường Quảng Trị, tham gia nhiều trận đánh ác liệt ở đường 9 Nam Lào, Lao Bảo, Cửa Việt,... Trong trận tiêu diệt cứ điểm Làng Vây ngày 6/2/1968, một cứ điểm hùng mạnh giáp biên giới Việt- Lào, do một trung đội Mỹ án ngữ, anh bị thương, hỏng mắt trái. Sau 8 tháng điều trị, Lê Mã Lương được ở lại hậu phương và cử đi học nước ngoài nhưng vẫn kiên quyết xin trở về đơn vị. Tháng 8/1969, trên đường hành quân tại dốc Pa Tra (Tây Khe Sanh), đơn vị của anh đụng độ với bọn thám báo Mỹ. Chỉ sau một tiếng rưỡi quần thảo, Lê Mã Lương tiêu diệt 14 tên Mỹ. Qua 14 trận đánh lớn, anh đã cùng đồng đội lập được nhiều chiến công, diệt 53 tên Mỹ, bắn cháy 1 xe tăng và phá huỷ 1 khẩu pháo “vua chiến trường” 175 ly của địch. Năm 1974, trước khi lên đường tham gia chiến dịch Thượng Ðức, anh vừa kết hôn với một cô giáo người Hà Nội- Lê Thị Bích Đào.
Lê Mã Lương có mặt ở điểm cao 1062 ngay từ những ngày đầu với cương vị Chủ nhiệm chính trị trung đoàn 24, sư đoàn 304 anh hùng và được phong quân hàm đại úy ngay tại chiến trường ác liệt này. Anh đã chứng kiến những khó khăn, gian khổ, mong manh giữa sự sống và cái chết bởi đạn pháo của kẻ thù. Để đánh vào điểm cao này, sư đoàn dù đã huy động 58 khẩu pháo hạng nặng, mỗi ngày bắn 9.000 quả đạn. “Đêm qua bị một trận cấp tập, pháo chụp vào đội hình, riêng hầm mình cũng “được lĩnh” một quả. Rất may, nếu là pháo khoan thì cả ba ngoẻo rồi. Toan nằm dán chặt vào góc hầm. Sơn nằm giữa, hai tay úp chụp sau gáy, chổng mông, tựa như người tế sao. Mình ngồi xổm, đề phòng hầm sập. Khói bụi sặc sụa, chớp lửa nhì nhằng…” (nhật ký ngày 18-10-1974). Khi còn là chiến sĩ, Lê Mã Lương đã từng chạm trán và quật ngã nhiều tên lính dù trong những ngày giữ chốt của chiến địa lịch sử Nam Lào, hiểu được bản chất gian manh, quỷ quái của của “thiên thần mũ đỏ”. Khi “hội ngộ” lính dù ở đỉnh 1062, anh nhận thấy bản chất ấy không hề thay đổi: “Thằng địch cũng táo tợn lắm, lùng sục suốt đêm, dầm mưa không ngủ, giành với ta từng thước đất” (nhật ký ngày 14-11-1974).
Anh hùng LLVTND Lê Mã Lương lúc ở chiến trường
Không chỉ có “địch họa”, “thiên tai” cũng là một kẻ thù không kém phần nguy hiểm, đe dọa khả năng chiến đấu của quân ta. Thượng Đức bấy giờ đang vào mùa mưa: “Mưa tầm tã suốt ngày đêm. Trời đất chẳng ra cái đếch gì cả, thực là thiên không thời, địa chẳng lợi. Bộ đội mới nhem nhuốc làm sao, mình không khác gì các chiến sĩ trên chốt…” (nhật ký ngày 28-10-1974); “Trời đất mới quáí ác làm sao. Ngày đêm mưa rả rích- gió từng cơn đổ ào ào, thỉnh thoảng có những cành cây đổ đánh rầm, đã thế lại pháo kích. Chợt nhớ câu ngạn ngữ: “Đất Quảng Đà chưa mưa đã thấm, rượu Quảng Đà chưa nhấm đã say”. Rượu thì mình chưa được uống nhưng mưa thì xin đủ. Nước khe đổ ầm ầm. Hầm ở sụt lở, tan hoang” (nhật ký ngày 2-11- 1974).
Vượt lên muôn ngàn khó khăn, các chiến sĩ trẻ của sư đoàn 304 vẫn kiên cường trụ bám “gieo cái cái chết lên những kẻ cuồng điên và tàn bạo”- lính dù. Là người chỉ huy, Lê Mã Lương nhận thấy và cảm phục ý chi ấy. Anh ghi lại những dòng nhật ký khá chân thực: “Bộ đội chiến đấu rất dũng cảm. Khắc phục khó khăn tốt…Sáng nay, bộ đội đại đội 7 được thay chốt. Nhìn thấy anh em mà thương, mà tin, mà tự hào. Quần áo, mặt mũi chân tay đều nhuốm một màu vàng quạch. Chân người nào cũng bị nước ăn sưng vù. Vậy mà gương mặt nào cũng ánh lên một niềm tin vững chắc. Bỗng thấy có cái gì cứ dâng lên nghẹn ngào trong lồng ngực” (nhật ký ngày 7-11-1974). Lê Mã Lương cũng dành nhiều dòng để thể hiện tinh thần quả cảm tuyệt vời của bội đội trên đỉnh 1062, quyết chiến, quyết thắng kẻ thù với khẩu hiệu: “Còn người còn chốt”, “Chiến đấu đến giọt máu cuối cùng, bị thương không rời trận địa”. Nhật ký ngày 8-11-1974 ghi: “Không thể có lời ngợi ca nào bao trùm đủ về lòng dũng cảm chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ các đơn vị giữ chốt. Địch đã dùng 5 đại đội bộ binh, hàng vạn quả pháo, hàng chục lượt chiếc máy bay đánh vào các chốt của ta. Song không có sức mạnh nào của địch làm chiến sĩ ta nao núng. Tất cả những đợt phản kích của địch đều bị chặn đứng trước hàng rào “thép” của chiến sĩ ta. Mình sẽ không bao giờ quên hình ảnh những người chiến sĩ quả cảm, như Lê Hồng Sửu, Chính trị viện Đại đội 2 anh hùng; như Đại đội trưởng Đinh Đình Bình, Trung đội trưởng Hảo, chiến sĩ Mùi…Đêm qua mình lên thăm và kiểm tra chốt Tiểu đoàn 4 trên 1062. Đứng trên đỉnh cách địch 70 m, thỉnh thoảng những quả pháo và cối tay bắn sang. Mùi thối của hàng trăm xác địch bốc lên làm mình buốt óc, bỗng trong lòng dấy lên một niềm tự hào về sự chịu đựng kiên cường của người chiến sĩ. Mình dựa vào một cây không còn cành. Nơi đây cũng không tìm ra cây nào có cành, đất bị xới nát. Chi chít những hố pháo khoan, đi trong đất tựa hồ như lội ruộng…”. Nhật ký của Lê Mã Lương còn dẫn lời các phương tiện thông tin đại chúng của địch đưa tin về thất bại của quân dù: “Quân đội Sài Gòn đang vấp phải sức kháng cự mãnh liệt của Trung đoàn 24 mang tên trung đoàn thép. Bước tiến của sư dù mỗi ngày một dè dặt hơn vì liên tục bị thiệt hại nặng” (Đài BBC); “Lính dù đang gặp một đối thủ đáng gờm nhất: Sư 304” (Đài phát thanh Sài Gòn).
Giữa những trang nhật ký thấm đẫm tính chân thực và bi tráng của cuộc quyết chiến trên đỉnh 1062, Lê Mã Lương đã ghi lại thái độ rõ ràng, thẳng thắn của một người đảng viên, người sĩ quan cách mạng về vấn đề tự phê bình và phê bình: “Mình chưa bao giờ tha thiếu sót nào của mình, dù là nhỏ nhất. Mỗi lần va vấp là mỗi lần lương tâm bị giày vò. Có những khuyết điểm thật hổ thẹn. Có ai không mắc sai lầm, khuyết điểm không nhỉ? Có lẽ không. Các vĩ nhân của ta đều có những sai lầm, có điều là lớn hoặc bé mà thôi. Vấn đề là người có khuyết điểm có quyết tâm sửa chữa hay không? Cái đáng trách là không dũng cảm nhìn thẳng vào sai lầm, khuyết điểm để khắc phục. Như hôm nay chẳng hạn, tội gì B cứ phải dối quanh như vậy. Thực tế khá nhiều những con người trước cái chết không run sợ nhưng khi vướng sai lầm thì quanh co sợ sệt. Khi người ta nhận ra khuyết điểm thì chính là lúc người ta có nhiều ưu điểm. Ngược lại chỉ thấy mình ưu điểm không thôi thì chính là đang dừng lại. Nguy cơ xuống dốc là khó tránh khỏi. Mình nghĩ vậy có đúng không nhỉ?”. Câu hỏi của Anh hùng Lê Mã Lương trong nhật ký ghi ngày 9-12-1974, cách đây 40 năm, thiết nghĩ vẫn còn mang tính thời sự sâu sắc, nhất là trong bối cảnh cả dân tộc ta đang dồn sức cho trận tuyến xoá đói nghèo, tụt hậu- một trận tuyến không kém phần gian khổ, hy sinh, ác liệt như trận tuyến chống ngoại xâm năm xưa!
Thiếu tướng - Anh hùng Lê Mã Lương tại Hội thảo khoa học "Chiến thắng Thượng Đức -
ý nghĩa và bài học lịch sử" tổ chức tại huyện Đại Lộc ngày 6/6/2014
- Vân Trình -