Đăng nhập

Tài khoản
Mặt trận Thượng Đức nơi chôn vùi uy danh “Thiên thần mũ đỏ”
Người đăng: ADMIN .Ngày đăng: 29/07/2014 .Lượt xem: 23241 lượt.

Sau 10 ngày chiến đấu quyết liệt, đúng 8 giờ 30 phút ngày 7/8/1974, Chiến dịch Thượng Đức (mang mật danh K.711) thắng lợi. Cánh cửa thép bảo vệ vòng ngoài Đà Nẵng của địch bị mở toang. Mất Thượng Đức là một đòn nặng cả về quân sự lẫn tâm lý đối với địch. Chính vì vậy, Bộ tổng tham mưu ngụy quyết định điều phần lớn sư đoàn dù - lực lượng tổng trừ bị chiến lược - mở cuộc hành quân đánh chiếm lại Thượng Đức. Ngày 8/8/1974, lữ đoàn 1 dù từ Sài Gòn được khẩn cấp không vận đến Đại Lộc bằng máy bay C130, còn các thiết bị nặng như đại bác 105 ly được đưa ra bằng tàu của Hải quân. Ngày 11/8/1974, lữ đoàn 3 dù được lệnh di chuyển bằng máy bay từ sân bay Phú Bài (Huế) xuống sân bay Đà Nẵng. Bộ Tư lệnh sư đoàn dù cùng chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng (Tư lệnh Sư đoàn dù) di chuyển đến Đà Nẵng, đặt bản doanh tại sân bay Non Nước. Tư lệnh sư đoàn dù hung hăng tuyên bố trước các nhà báo: Sẽ đánh bật lực lượng Cộng sản ra khỏi vùng Đại Lộc trong tháng 8/1974 và "nếu không tái chiếm được Thượng Đức thì xin thượng cấp giải tán sư đoàn dù" (!)

              Sư đoàn dù (binh chủng nhảy dù) của quân đội Sài Gòn chính thức được thành lập ngày 1 tháng 5 năm 1955 tại Nha Trang với cấp liên đoàn nhảy dù do đại tá Đỗ Cao Trí chỉ huy. Ngày 26 tháng 10 năm 1959, liên đoàn nhảy dù được nâng lên thành lữ đoàn nhảy dù Việt Nam. Hơn 6 năm sau, lữ đoàn nhảy dù được nâng lên thành sư đoàn nhảy dù. Đến cuối năm 1974, sư đoàn dù khá hùng hậu, có 3 lữ đoàn nhảy dù gồm 9 tiểu đoàn tác chiến, bộ chỉ huy tổng hành dinh, bộ chỉ huy pháo binh với 3 tiểu đoàn trực thuộc, tiểu đoàn quân y, tiểu đoàn yểm trợ, tiểu đoàn truyền tin, tiểu đoàn công binh, đại đội khoá sinh Vương Mộng Hồng, 3 đại đội trinh sát, đại đội tổng Hành dinh, đại đội 204 quân cảnh, trung tâm huấn luyện nhảy dù, khối bổ sung, bệnh viện Đỗ Vinh (điều trị thương bệnh binh dù). Sư đoàn dù  là một đơn vị chính quy được thành lập sớm nhất và được xem là lực lượng thiện chiến nhất, “con át chủ bài tin cậy của nền Cộng hòa" và là "lực lượng tổng trừ bị của Quân lực Việt Nam Cộng hòa". Kể từ ngày thành lập, các đơn vị của sư đoàn dù đã tham dự hơn 30.000 cuộc hành quân lớn nhỏ: nhảy dù, trực thăng vận, hành quân bộ… Với quân kỳ mang hình con diều hâu nhảy dù và dòng chữ "Thiên thần sát Cộng", quân dù rất kiêu ngạo, huênh hoang tự xưng mình là "đàn anh", là "những chiến binh mũ đỏ từng dẫm nát các căn cứ hậu cần, các mật khu trên lãnh thổ 4 Quân khu, tiêu diệt hàng trăm đơn vị chính quy Cộng sản Bắc Việt và địa phương" (!).


Điểm cao 1062 trên bản đồ quân sự của địch

Trước việc địch điều động lực lượng tổng dự bị chiến lược "vào cuộc", Bộ Tổng tham mưu đã giao nhiệm vụ cho Quân đoàn 2 phải giữ vững khu vực Thượng Đức mới giải phóng, đánh bại cuộc hành quân "tái chiếm Thượng Đức" của sư đoàn dù; tuyệt đối không được để thành tiền lệ là "quân dù đi đến đâu là giải tỏa được đến đó". Đại tướng Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng đã triệu tập Thiếu tướng Hoàng Văn Thái và Thiếu tướng Lê Linh (Tư lệnh và Chính ủy Quân đoàn 2) về Hà Nội và chỉ thị: "Việc giữ Thượng Đức và đánh bại quân dù đi giải tỏa có một ý nghĩa chính trị, quân sự lớn đối với địch cũng như đối với ta. Vì vậy, vấn đề nóng bỏng của Quân đoàn hiện nay là Thượng Đức. Phải tìm mọi cách làm suy yếu, giam chân quân dù trên chiến trường này càng lâu càng tốt, suốt cả mùa Xuân năm 1975 để tạo điều kiện cho các nơi khác hoạt động".

          Như vậy, mặt trận Thượng Đức đã trở thành nơi đọ sức quyết liệt giữa lực lượng chủ lực cơ động của ta phối hợp cùng lực lượng tại chỗ với lực lượng tổng dự bị động viên của địch.

             Cậy có quân đông, hỏa lực mạnh, trong những ngày trung tuần tháng 8-1974, địch tổ chức tiến công ồ ạt hòng nhanh chóng chiếm các trận địa của trung đoàn 3 để tạo bàn đạp đánh vào Thượng Đức. Thế nhưng, sau 13 ngày tiến công vào khu vực điểm cao 52, Bàn Tân 2 không thành công, chỉ huy sư đoàn dù ngụy quyết định bỏ hướng đường 14 để tập trung đánh lên các điểm cao 109,  700, 1062. Về chiến thuật, địch bỏ lối đánh ồ ạt chuyển sang áp dụng chiến thuật "lấn dũi" (đã từng được dùng vào năm 1972 ở miền tây Quảng Trị). Chúng hy vọng,  với cách đánh "lấn dũi" cộng với bom,  pháo bắn vào trận địa ta, quân ta sẽ bị hao mòn dần,  không còn  đủ sức giữ trận địa. Và khi đó, chúng sẽ "gặm nhấm" dần vùng giải phóng Thượng Đức.

           Đối mặt với lực lượng tổng  trừ bị chiến lược của địch, ở  thời điểm này, lực lượng của ta gặp rất nhiều khó khăn: Quân số hao hụt nhiều sau chiến dịch giải phóng Thượng Đức. Đạn súng lớn phải tính từng viên trong ngày. Bộ đội ngày đêm giữ chốt  không chỉ đối phó với bom đạn mà còn phải hứng chịu thời tiết khắc nghiệt: mưa nhiều, hầm sụt lở từng mảng, trong hầm lúc nào cũng có nước và bùn ngập tới mắt cá chân. Đường vận chuyển, tiếp tế luôn gặp ách tắc. Ăn uống thiếu  thốn lại phải chiến đấu căng thẳng khiến sức khỏe của chiến sĩ ta giảm đi rõ rệt. Thêm vào đó, chiến  thuật "lấn dũi" của địch tỏ ra có hiệu quả: Một số chốt (như 700, 109, 383) của ta bị địch chiếm. Việc mất một số cao điểm  đã có ảnh hưởng đến tư tưởng và tinh thần chiến đấu của một số cán bộ,  chiến sĩ.

        Trước tình hình đó, cuối tháng 10.1974, Đảng ủy sư đoàn 304 họp mở rộng và thống nhất nhận định: Địch tuy chiếm được một số chốt nhưng chúng đã  bị động và sa lầy  ở mặt  trận Thượng Đức. Quyết tâm của Đảng ủy sư đoàn là nhanh chóng rút kinh nghiệm chiến đấu,  tổ chức lại trận địa phòng ngự,  nhất là hầm hào, chặn đứng sư đoàn dù, đánh bại âm mưu tái chiếm Thượng Đức.     Lúc này, đồng chí Hoàng Đan, Tư lệnh phó Quân đoàn 2 trở lại Thượng Đức cùng với trung đoàn 24, hai tiểu đoàn công binh và 4.000 viên đạn pháo cối để hỗ trợ cho lực lượng đang bảo vệ Thượng Đức. Trong hồi ký của mình, ông cho biết: “Vào đến sư đoàn, việc đầu tiên tôi đề xuất với Bộ Chỉ huy sư đoàn là phải tiến hành tập huấn về phòng ngự ngay cho cán bộ từ tiểu đội đến tiểu đoàn. Mỗi lớp tập huấn được tổ chức 3 ngày. Một hình  mẫu trận địa được xây dựng ngay cạnh lớp học. Các cán bộ được tự do nêu ý kiến phân tích, tranh luận đến cùng”. Kết thúc lớp học, đồng chí  Hoàng Đan nêu vấn đề: "Với hệ thống chốt được xây dựng thành nhiều tuyến, cho dù địch cứ 3 ngày lấn chiếm được một chốt của ta thì cũng phải mất 3 tháng địch mới mò tới Thượng Đức. Ba tháng nữa là đã đến mùa khô, tình hình lúc đó lại đã khác rồi". Nhờ tổ chức tập huấn và xây dựng trận địa làm mẫu, nội dung huấn luyện sát với những thực tế đòi hỏi nên hiệu quả mang lại rất cao: Tất cả cán bộ đều biết cách xây dựng trận địa, biết cách đánh và tin tưởng ở cách đánh. Ngày 28.10.1974, sư đoàn 304 tổ chức một trận phản kích, chiếm lại toàn bộ điểm cao 1062. Ta đã loại khỏi vòng chiến đấu tiểu đoàn 2 và tiểu đoàn 3 sư đoàn dù.

          Tháng 11.1974, sư đoàn dù đưa tiếp lữ dù 2 vào cuộc chiến. Bộ Chỉ huy chiến dịch của ta nhận định: Địch tung lực lượng dự bị vào không phải để thay đổi thế trận mà chủ yếu là hoạt động hỗ trợ cho lữ dù 1 và 3 đã mất sức chiến đấu. Với lực lượng mới này, địch chỉ đủ quân để rải ra trên các tuyến chiến đấu với ta chứ không thể có lực lượng tiến công nữa. Thực hiện chủ trương của Bộ Chỉ huy chiến dịch,  khi  lữ dù  2 vừa chân ướt chân ráo đến khu vực tập kết,  pháo binh ta đã đánh phủ đầu khiến chúng bị thương vong khá nhiều. Ta còn cho trinh sát luồn vào nơi đóng quân của địch để tập kích trận địa pháo, đốt cháy kho đạn. Công binh dùng đạn pháo chưa nổ của địch liên kết với mìn làm giàn phóng vào đội hình chúng gây hoang mang, lo sợ,  không hiểu ta đã có vũ khí gì mới.


Trung đoàn phó Trung đoàn 66 (sư đoàn 304) Phạm Xuân Thệ (bìa bên phải,
người cầm súng ngắn) cùng các chiến sĩ sư đoàn 304 trong lực lượng thọc
 sâu của Quân đoàn 2 đánh chiếm Dinh Độc Lập bắt tổng thống Dương Văn Minh
và thủ tướng Vũ Văn Mẫu ra Đài phát thanh Sài Gòn tuyên bố đầu hàng

          Cuộc chiến trên dãy Sơn Gà ngày ấy diễn ra rất ác liệt. Điểm cao 1062 là đỉnh cao của cuộc đọ sức giữa lực lượng chủ lực của ta và địch, là biểu tượng chủ nghĩa anh hùng cách mạng của tập thể cán bộ, chiến sĩ sư đoàn 304 và sư đoàn 324 kiên cường: Trung úy Nguyễn Văn Áy bị thương cả hai chân và một tay vẫn nằm lại trên chốt để chỉ huy và động viên bộ đội chiến dấu. Chính trị viên Thuyết bị thương, vẫn ở lại cùng đồng đội giữ trận địa cho tới lúc có lực lượng phía sau lên thay. Chiến sĩ Nguyễn Văn Thơ chiến đấu dũng cảm, mưu mẹo chụp bắt và ném trả hàng chục quả lựu đạn địch để diệt chúng. Trước lúc hy sinh, Nguyễn Văn Thơ còn bình tĩnh động viên anh em quyết đánh thắng địch. Anh hùng LLVT Phạm Văn Thọ, nguyên Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 8, trung đoàn 3, sư đoàn 324 nhớ lại: “ Ngày 18/11/1974, địch cho 12 lần máy bay A37 ném bom đào xới bình độ 400 thành đồi đỏ hoẻn, không còn cây cối. 17 chiến sỹ của đại đội 6 bị điếc, thương vong nhưng vẫn bám trụ đánh địch hết đợt này đến đợt khác. Song, lực lượng địch quá đông, chúng tràn lên chốt. Đến 18 giờ 30 phút, đồng chí Trần Quang Diễn- chính trị viên bị thương nặng, lệnh cho anh em xuống hầm moi  (đào sâu dưới lòng đất từ 5 mét trở lên, chống được đạn pháo của địch) và yêu cầu hoả lực bắn trùm lên chốt. Đồng chí Hồ Hữu Lan- trung đoàn trưởng lệnh cho pháo cối 120. Tôi lệnh cho cối 82, 60 ĐK bắn trùm lên chốt. Địch thương vong nhiều, bỏ lại 43 xác. Chiến sĩ ta lại sửa lại trận địa chốt và hứa với Phó Tư lệnh Hoàng Đan là đại đội 6, tiểu đoàn 8 luôn giữ vững trận địa chốt thép T2”.

          Cuối năm 1974, qua 4 tháng bị giam chân ở chiến trường rừng núi, sư đoàn dù đã bị đánh quỵ và phải rút khỏi mặt trận Thượng Đức. Đây là trận đánh lớn nhất và cũng là trận thất bại nặng nề nhất của quân dù kể từ khi thành lập (các tài liệu của địch thú nhận đã bị thiệt hại đến 50 phần trăm quân số). Uy danh của những "thiên thần mũ đỏ" đã bị chôn vùi hoàn toàn. Đại tướng Hoàng Văn Thái nhận định: "... Cùng với Nông Sơn, Trung Phước và các hướng khác, việc quân ta tiêu diệt Thượng Đức và đánh bại các đợt phản kích của sư đoàn dù cơ động, xương sống của ngụy, cho phép khẳng định: Lực lượng so sánh trên chiến trường đã thay đổi, quân ta có thể tiến công địch trong công sự kiên cố, diệt cụm cứ điểm quận lỵ địch và giữ được mục tiêu mới chiếm ... Điều có thể khẳng định là chủ lực cơ động của ta đã hơn hẳn chủ lực cơ động của địch. Kết luận đó có liên quan không nhỏ đến quyết tâm chiến lược của ta ...".

           Sau chiến công đánh quỵ sư đoàn dù và bảo vệ vùng giải phóng Thượng Đức, tháng 3/1975, các cán bộ, chiến sĩ ngoan cường của sư đoàn 304 anh hùng được lệnh tiến đánh giải phóng thành phố Đà Nẵng theo hai hướng: Trung đoàn 9 nhanh chóng hành quân theo trục đường 14 phá vỡ tuyến phòng ngự của sư đoàn 3 ngụy, vượt qua núi Phước Tường, Hòa Khánh, chiếm tòa thị chính Đà Nẵng vào lúc 13 giờ ngày 29/3/1975. Còn hai trung đoàn 66 và 249 đập tan sự chống cự của địch ở Phú Hương, Đồng Lâm, chuyển sang truy kích, chiếm trung tâm huấn luyện Hòa Cầm vào lúc 12 giờ 30 và tiến vào đánh chiếm sân bay Đà Nẵng.

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử- trận quyết chiến chiến lược của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Trung đoàn 66, sư đoàn 304 nằm trong đội hình Binh đoàn thọc sâu của Quân đoàn 2 dũng mãnh tiến công theo trục đường số 15, xa lộ Sài Gòn – Biên Hòa, thần tốc tiến vào nội đô Sài Gòn. Lịch sử thêm một lần ghi nhận: Trung đoàn phó Trung đoàn 66 Phạm Xuân Thệ cùng các chiến sĩ từng hạ uy danh của “thiên thần mũ đỏ” ở mặt trận Thượng Đức 4 tháng trước đó đã bắt sống toàn bộ nội các chính quyền Sài Gòn ngay tại Dinh Độc Lập, đưa tổng thống Dương Văn Minh và thủ tướng Vũ Văn Mẫu ra Đài phát thanh Sài Gòn đọc lời tuyên bố đầu hàng không điều kiện Quân giải phóng miền Nam Việt Nam vào ngày 30/4/1975. 

- Vân Trình -

[Trở về]
Các tin mới hơn:
Hội LHPN huyện Đại Lộc tổng kết công tác hội và phong trào phụ nữ năm 2024
Liên đoàn Lao động huyện tổ chức Hội nghị tổng kết Phong trào xây dựng “Cơ quan đạt chuẩn văn hóa”; “Đơn vị đạt chuẩn văn hóa”; “Doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa” năm 2024 và triển khai nhiệm vụ năm 2025
Hội Liên hiệp phụ nữ xã Đại Hưng tổ chức chương trình “Vì yêu mà đến” tại xã A Vương huyện Tây Giang
Hội nghị đánh giá công tác phối hợp giữa LĐLĐ với UBND huyện và các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể huyện năm 2024
Hội CCB xã Đại Phong ra mắt mô hình “Đường cờ Đảng, cờ Tổ quốc” tại thôn Mỹ Hảo
Nhiều hoạt động kỷ niệm 94 năm ngày thành lập Hội Nông dân dân Việt Nam
Đại Lộc- Nhiều hoạt động ý nghĩa tại “Ngày hội tình nguyện”
Đoàn viên công đoàn huyện Đại Lộc ủng hộ hơn 749 triệu đồng cho đồng bào miền Bắc khắc phục hậu quả thiên tai
Hội CCB huyện Khai mạc Hội thi Tuyên truyền viên - Baó cáo viên giỏi cấp Huyện hội năm 2024
LĐLĐ huyện Đại Lộc tổ chức Hội nghị sơ kết 9 tháng đầu năm 2024 và tập huấn nghiệp vụ CĐCS năm 2024
    
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10  
    
Các tin cũ hơn:
Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Đại Lộc tổ chức thành công Hội thi “Cán bộ Hội Phụ nữ cơ sở giỏi năm 2014 ”
LĐLĐ huyện Đại Lộc tổ chức gặp mặt kỷ niệm 85 năm ngày thành lập Công đoàn Việt Nam
Hội viên nông dân huyện Đại Lộc tổ chức nhiều hoạt động hướng đến kỷ niệm 40 năm Chiến thắng Thượng Đức (07/8/1974-07/8/2014)
Đảng bộ Cơ quan MT-ĐT huyện sơ kết công tác 6 tháng đầu năm 2014
Đại Lộc tổ chức Hội nghị Uỷ ban Mặt trận TQVN lần thứ 2, nhiệm kỳ 2014-2019
Thành lập Công đoàn cơ sở công ty TNHH Dệt may Thái Liên-Việt Nam
LĐLĐ huyện Đại Lộc khánh thành và bàn giao nhà “Mái ấm công đoàn” năm 2014
Liên hoan Tiếng hát CNVCLĐ lần thứ X năm 2014
Phát động Hoạt động hè và ra quân Chiến dịch thanh niên tình nguyện hè năm 2014
Tổ đại biểu HĐND tỉnh Quảng Nam tiếp xúc cử tri huyện Đại Lộc sau kỳ họp thứ 10
    
1   2   3   4   5   6   7   8