1. Bối cảnh lịch sử
Năm 1858, thực dân Pháp nổ tiếng súng đầu tiên vào cửa biển Đà Nẵng mở đầu cho việc xâm lược nước ta. Các phong trào yêu nước liên tục nổ ra ở khắp nơi nhưng cuối cùng bị thất bại. Thực dân Pháp bắt tay vào việc cai trị thông qua công cuộc khai thác thuộc địa. Năm 1897, thực dân Pháp tiến hành chính sách “khai thác thuộc địa” lần thứ nhất bằng những chính sách thực dân phản động và bảo thủ, bóc lột nhân dân ta với quy mô và mức độ khốc liệt đặc biệt là chính sách sưu thuế đã làm nổi lên các phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ.
Trong bối cảnh đó, phong trào Duy Tân (do Phan Châu Trinh đề xướng năm 1906) ngày càng phát triển mạnh, nhất là tư tưởng dân quyền mà phong trào này đề cao, đã gây tác động không nhỏ vào đời sống của dân nghèo, làm bùng lên cuộc đấu tranh "chống đi phu, đòi giảm sưu thuế" rất quyết liệt của họ tại nhiều tỉnh miền Trung.
2. Diễn biến ở các tỉnh miền Trung:
Nam
Giữa lúc phong trào Đông Du và Duy Tân diễn ra quyết liệt thì năm 1908 tại các tỉnh miền Trung nổ ra phong trào chống sưu cao thuế nặng rất sôi nổi mà Đại Lộc được vinh dự là quê hương mở đầu.
Đại Lộc vào những năm đầu của thế kỷ XX, do chính sách bóc lột của thực dân phong kiến có thể nói là nơi thống khổ nhất của tỉnh Quảng Nam. Cộng vào đó, liên tiếp các năm 1904, 1905, 1906, trời hạn, đồng ruộng khô khan, dân phải ăn cử ngát ngo, hạt cỏ chát để sống. Tri huyện Đại Lộc lúc này là Phạm Đình Lãng nổi tiếng hiếp dân, bất công. Đầu năm 1908, nhân dân Đại Lộc đã kiện viên tri huyện này lên Tòa công sứ Pháp ở Hội An nhưng viên công sứ Sác-lơ (Charles) bao che, xử y vô tội. Vào hạ tuần tháng 01 năm đó, nhân có nghị định tăng thuế, viên tri huyện này đã tăng khống số dân lên quá mức thực tế làm cho nhân dân địa phương càng thêm điêu đứng.
Nhân dân Đại Lộc vì thế mà uất ức vô cùng. Nhân một bữa đám giỗ ở làng Phiếm Ái (nay thuộc xã Đại Nghĩa), một số hào lý và học sinh như Trương Tổn, Trương Côn, Trương Đính, Trương Hoành (Phiếm Ái), Hứa Tạo (Ái Nghĩa), Lương Châu (Hà Tân)… bàn nên viết đơn, đi các làng lấy chữ ký xin chính quyền giảm sưu thuế. Do việc làm xuất phát từ sự thương dân, vì quyền lợi chính đáng của đa số nhân dân, nên những người "làm đơn lấy chữ ký ", được nhân dân trong huyện gọi là "Đồng dân" và cuộc "Xin sưu" do họ khởi xướng được gọi là "Sòng Đồng Dân" hay là "Sòng dân Đại Lộc". Việc lấy chữ ký được tiến hành nhanh chóng, có tới 16, 17 lý trưởng ký biên vào đơn. Tuy nhiên, lý trưởng làng La Đái là Nguyễn Khâm (tức Xã Nhự), sau khi ký vào đơn đã đi báo với tri huyện Đại Lộc, tên này lại đi báo với cấp trên của y rằng: dân Đại Lộc nổi loạn. Thấy việc nhỏ mà hóa lớn, ngày 11 tháng 3 năm 1908, dưới sự chỉ huy của những người khởi xướng, hơn 400 người dân Đại Lộc kéo đến huyện lỵ với lá đơn xin giảm thuế để yêu cầu “nhờ quan đứng xin giúp”… Thế nhưng, quan tri huyện chạy xuống tỉnh cấp báo. Vậy là người dân ùn ùn kéo xuống tỉnh xin sưu. Đến chợ Vĩnh Điện, số dân tụ tập đã tăng lên năm, sáu trăm người. Tại đây, nghe tin quan tri huyện đã xuống Tòa công sứ, nhân dân Đại Lộc lại kéo đến Tòa công sứ ở Hội An. Trước mặt viên công sứ Sác-lơ (Charles), 3 đại biểu của đoàn biểu tình là Hứa Tạo, Trương Hoành và Lương Châu đã nói rõ những thống khổ của nhân dân trong huyện, gánh nặng sưu thuế và những hậu quả của nó đối với nhân dân. Các đại biểu yêu cầu chính quyền thực dân và phong kiến triều Nguyễn giảm sưu, giảm thuế cho nhân dân, trừng trị bọn tham quan ô lại. Sác- lơ trả lời rằng việc giảm sưu, giảm thuế vượt quá quyền hạn của Tòa công sứ Pháp . Y bảo dân về, đợi y trình lên Khâm sứ Trung Kỳ rồi giải quyết sau. Dân chúng thừa biết đó chỉ là lời hứa suông nên không chịu ra về. Sác-lơ liền cho lính tập bắt giam Hứa Tạo, Trương Hoành, Lương Châu và dùng roi, gậy gộc, báng súng đàn áp, giải tán đoàn biểu tình nhưng không sao giải tán được.
Sau khi 3 đại biểu bị bắt, Đồng Dân và quần chúng nghĩ ngay đến cuộc đấu tranh lâu dài. Đoàn biểu tình cử người đi tới 7 phủ huyện trong tỉnh (Duy Xuyên, Điện Bàn, Hòa Vang, Tam Kỳ, Quế Sơn….) để vận động người đổ dồn về Hội An vây lấy Tòa Công sứ Pháp. Khi ở Hội An quá đông người, một kế hoạch khác đặt ra là đổi phiên, kẻ đi người về để duy trì phong trào được lâu dài, huy động được nhiều người ở nhiều độ tuổi, tàng lớp tham gia:
Mười lăm cho chí ông già
Cơm thời ruột tượng xuống Tòa đổi ban
(Vè xin xâu)
Với kế hoạch “đổi ban”, cuộc bao vây Tòa công sứ Pháp tại Hội An kéo dài cả tháng trời mới chấm dứt (đến cuối tháng 4 năm 1908), đòi hỏi cho các kỳ được giảm sưu, giảm thuế. Về sau, số đồng bào được huy động thêm để hỗ trợ quần chúng biểu tình trở về địa phương bao vây các phủ, huyện đường. Khẩu hiệu đấu tranh cao dần, từ chỗ đòi giảm bớt số ngày đi xâu, đòi bỏ lệ đi xâu và cuối cùng là đòi giảm thuế.
Đi đôi với chống thuế, nhân dân trong tỉnh còn trừng trị những tên tay sai gian ác. Chánh Năm tên thật là Trần Quát, giữ chức Chánh tổng An Lễ Hạ bấy giờ. Khi nhân dân đứng lên đòi giảm sưu cao thuế nặng, y xây buồng giam và cấm dân không được tham gia phong trào, ai không tuân hành sẽ bị tống giam. Dưới sự lãnh đạo của Trần Phước (Hương Cập), Nguyễn Cương (Tú Can), Ông Ích Đường (người Phong Lệ, Hòa Vang)…, nhân dân các tổng An Lễ, Phú Mỹ, Quảng Hòa nổi dậy trừng trị Chánh Năm, bắt y phải khai tất cả tội lỗi, đồng thời phá buồng giam, đốt dụng cụ tra tấn, giải phóng tù nhân. Sau đó, đoàn biểu tình dẫn y ra bờ sông Vu Gia, buộc đá vào bụng và dìm y xuống sông, kết liễu cuộc đời một tên tay sai ham danh vọng, phản bội đồng bào. Ở tổng Đức Thượng, Trần Phước đã dẫn đầu đoàn người đến đốt nhà, thu thóc và tiền của tên Phó Tổng Huyên (tức Chánh Đỉnh) ở làng Mậu Lâm…
Trước sức mạnh của nhân dân, sau những thủ đoạn lừa phỉnh và đàn áp vô hiệu, công sứ Pháp phải đứng ra hứa cách chức tri huyện Đại Lộc và từ nay về sau không tăng mức thuế nữa.
Nhân dân Đại Lộc đã thành công trong việc phát động phong trào. Phong trào chống thuế bắt đầu từ Đại Lộc rồi mở rộng ra cả tỉnh Quảng Nam sau đó đã lan nhanh ra hơn 10 tỉnh miền Trung tạo thành một làn sóng đấu tranh chống thuế ồ ạt, làm rung chuyển bộ máy thống trị của thực dân phong kiến.
Từ huyện Đại Lộc, phong trào đấu tranh đòi giảm sưu, giảm thuế nhanh chóng lan rộng khắp nơi trong tỉnh, đồng bào lũ lượt kéo về hưởng ứng cuộc đấu tranh. Ngày 20/8/1908, nhân dân Điện Bàn vây thành La Qua, hỏi tội Tổng đốc Hồ Đắc Trung và đòi y phải bảo vệ cho nhân dân biểu tình. Hồ Đắc Trung thoái thác, quần chúng vạch mặt Trung là tay sai của Pháp. Khắp các nơi, đồng bào kéo về Hội An mỗi lúc một đông, có lúc lên đến 8.000 người. Ngày 22/3/1908, quần chúng đã tràn vào phủ đường bắt viên Tri phủ Trần Văn Thống đi xin sưu, xin thuế cho dân. Khi dân chúng kéo vào phủ đường trình bày nguyện vọng xin giảm sưu thuế thì Tri phủ Trần Văn Thống bảo rằng không được vì bận cưới vợ cho con trai. Quần chúng bất bình, một số người tiến lên công đường bồng xốc viên Tri phủ lên, vứt tọt vào xe và kéo đi. Đoàn biểu tình xin sưu đi về hướng Hội An, vừa đi vùa loa vang tuyên truyền: “Tri phủ đã đầu hàng, Tri phủ đã chịu dẫn đi xin sưu!”. Bọn Pháp nghe tin đưa lính lên ứng cứu, bắn chết 01 người và làm 03 người khác rơi xuống sông chết đuối. Về sau, các phủ, huyện được lệnh không phải kéo ra Hội An nữa mà dân ở phủ huyện nào thì tổ chức vây phủ huyện nấy, đòi giảm sưu, giảm thuế. Từ đấy, cuộc đấu tranh mở rộng quy mô ra toàn tỉnh, không chỉ dừng lại ở việc bao vây Tòa Công sứ Pháp ở Hội An. Các vụ diệt ác, trừ gian, vây bắt tri phủ, tri huyện, số tay chân của thực dân Pháp có nợ máu với nhân dân bùng nổ khắp nơi.
Ở phủ Tam Kỳ, vào ngày 30/3/1908 đã nổ ra một cuộc biểu tình xin sưu lớn. Nhân dân trong phủ đông đến 3000 - 4000 người, kéo đến biểu tình kiên quyết vây bắt cho được tên coi sưu hung bạo Đề Sự. Y trốn vào phủ đường Tam Kỳ. Đoàn biểu tình vây phủ, đòi Tri phủ phải giao Đề Sự cho dân xử trị. Chờ đến tối, Tòa đại lí Pháp đem xe đến giải thoát cho y. Đợi cho xe ra khỏi phủ đường, nhân dân đuổi theo. Cụ Trần Thuyết đứng ra hô lớn: “Dân ta xin quan đại lí giao ông Đề Sự cho dân ăn gan!”. Dân đồng thanh “Dạ” vang trời làm cho Trần Tuệ sợ mất vía, hộc cả máu miệng. Xe về đến Tòa đại lí thì y tắt thở.
Rõ ràng phong trào chống thuế không chỉ lan rộng mà còn có sự liên kết giữa các huyện Đại Lộc với huyện Duy Xuyên, huyện Điện Bàn, Hòa Vang, Tiên Phước, Thăng Bình, Quế Sơn...hình thành lực lượng đông đảo trong phong trào đấu tranh đòi giảm thuế, giảm sưu. Hèn nhát, hoảng sợ trước sức mạnh của nhân dân, thực dân Pháp và tay sai ra tay đối phó, khủng bố trắng, đã bắt bớ, giam cầm, tra tấn dã man mấy trăm người dân vô tội, trong đó chủ yếu là nông dân, một số học sinh và chức sắc tiến bộ ở địa phương. Nhằm dẹp yên cuộc nổi dậy, dập tắc phong trào chống thuế, nhà cầm quyền thực dân và bọn tay sai không những không đáp ứng yêu cầu chính đáng của nông dân và nhân dân lao động mà còn tiếp tục ra lệnh bắt hàng loạt nhà yêu nước, chí sĩ yêu nước, trong đó có người bị chúng đầy ra Côn Đảo hoặc sát hại. Chúng bắt cụ Huỳnh Thúc Kháng, Tiểu La Nguyễn Thành, Phan Thúc Duyên, Lê Bá Trinh, Trương Bá Huy, Trần Cao Vân đày ra Côn Đảo. Nhiều người trong đó đã bị chết trong nhà tù tàn bạo của bọn thực dân.
Tại Đại Lộc, nơi đầu tiên nổ ra phong trào bị địch đàn áp rất khốc liệt. Chúng bắt bớ bỏ tù 6 người đề xướng phong trào đày lên Lao Bảo, trong đó về sau chỉ có 2 người còn sống là Trương Hoành và Lương Châu. Ngoài ra địch còn hành quân lùng sục cả tháng trời để bắt những người yêu nước. Chúng bắn vào bất cứ đám đông nào vì luôn cho đó có thể là một vụ tụ tập để biểu tình. Có lần Xô- nhi (Sogni) dẫn một toán lính Tập đi ngang chợ Ái Nghĩa, thấy dân đang họp chợ, viên thiếu úy này liền cho lính vây bắt được 6 người và ra lệnh chém, bêu đầu ngay giữa chợ. Ngày 10 tháng 6, tại làng Mậu Lâm, tổng Đức Thượng, địch xử chém cụ Trần Phước trong khi đó một toán lính Pháp khác kéo về làng Phú Phước để truy tìm những người lãnh đạo phong trào. Chúng cho tập trung thanh niên lại để truy tìm những thanh niên hớt tóc ngắn. Nhưng nhờ đối phó kịp thời bằng những mái tóc giả nên thanh niên trong làng thoát được sự bắt bớ của kẻ thù. Sau đó, bọn lính này đã vào làng Tân Mỹ bắt ông Nguyễn Cương (tức Trùm Sâm), ông Bá Ngạn dẫn ra gốc cây thị- đình Tứ Châu, làng Lâm Yên để xử bắn.
* Tại Quảng Ngãi
Đây là một trong những địa phương tổ chức được nhiều cuộc biểu tình chống sưu thuế rầm rộ, kéo dài nhiều ngày. Lãnh đạo phong trào chống sưu thuế cũng là những người lãnh đạo phong trào Duy Tân. Đi đầu là hai ông Lê Khiết và Nguyễn Bá Loan. Hai ông đã tổ chức và lãnh đạo cuộc biểu tình lớn với hàng ngàn người tham gia, đòi chống sưu thuế, bao vây tỉnh đường từ ngày 31/3/1908 đến ngày 12/4/1908. Một số nhà khoa bảng khác ở Quảng Ngãi cũng hưởng ứng tích cực phong trào chống sưu thuế.
Trước tình hình đó, các quan lại từ tỉnh đến huyện đã thẳng tay đàn áp các cuộc biểu tình chống sưu thuế và các hoạt động khác. Hầu hết những người lãnh đạo đều bị bắt tù đày hoặc xử trảm.
* Tại Bình Định
Đoàn người biểu tình mang theo dao kéo, cắt "búi tóc"[11] tất cả những người gặp trên đường. Họ gọi nhau là "đồng bào", khắc con dấu, phát truyền đơn, cáo thị...Ngoài ra, họ còn đi lùng bắt một số nhân viên thu thuế chợ, cường hào và hương lý mà bấy lâu nay đã sách nhiễu dân để trừng trị. Đến ngày 18 tháng 4, số người biểu tình đã lên đến hàng vạn. Họ lần lượt kéo đến bao vây tỉnh thành Bình Định, hết đợt này đến đợt khác. Chính quyền Pháp ở Bình Định, đứng đầu là Công sứ Pháp Sandré, phó sứ Fries; tổng đốc Tôn Thất Đàm, án sát Huỳnh Lưu, Bố chánh Cao Xuân Tiêu... đem quân ra đối phó. Nhiều cuộc xung đột đã diễn ra tại đây.
* Tại Phú Yên
Khởi đầu là cuộc vận động "cắt tóc" diễn ra sôi nổi trong dân chúng khắp nơi trong tỉnh. Cuộc vận động này dần trở thành một phong trào làm cho chính quyền thực dân lo ngại. Hành động tiếp theo của người dân (chủ yếu là nông dân, trên tay không vũ khí) là tổng tiến hành các cuộc biểu tình đưa kiến nghị lên các quan phủ huyện đòi giảm sưu thuế.
Đầu tiên là ở huyện Đồng Xuân. Ngày 5 tháng 5 năm 1908, nhờ một số nhân sĩ hướng dẫn, đông đảo người dân đã kéo đến huyện lỵ để xin giảm sưu thuế. Ngày 11 tháng 5 năm 1908, một đoàn biểu tình khác khoảng 200 người kéo đến phủ đường Tuy An, hô vang các khẩu hiệu đòi giảm sưu thuế. Một số người bị kích động xông vào đoạt súng của giám binh Pháp Fourré, nhưng liền bị đẩy lui.
Ở phía nam Phú Yên, các cuộc biểu tình đòi giảm sưu thuế diễn ra mạnh mẽ, lôi cuốn nhân dân khắp các làng, tổng thuộc phủ Tuy Hòa tham gia. Trước áp lực đông đảo của hơn hai ngàn người, tri phủ Tuy Hòa là Nguyễn Hoàng vội đóng chặt nha phủ, điện báo cho công sứ ở tỉnh lỵ Sông Cầu là Lehé là dân "Tuy Hòa đang nổi loạn" rồi trốn biệt.
Đến ngày 13 tháng 5 năm 1908, đoàn biểu tình kéo ra tỉnh lỵ Sông Cầu (chef lieu) để khiếu nại chính quyền của công sứ Lehé, phó sứ Hugnet; đại lý Pháp ở Cheo Reo là Cottez.... Nhưng khi đến Trạm Gành (thuộc huyện Tuy An), thì bị quân của lãnh binh Legot chặn lại. Một cuộc xô xát xảy ra, làm một số người chết và bị thương vì trúng đạn của đối phương. Mặc dù vậy, đoàn biểu tình vẫn không chịu dừng lại. Đến khi ấy, chính quyền thực dân đã phải bèn điều thêm một trung đội lính khố đỏ đang đóng tại tỉnh lỵ Sông Cầu đến tiếp tay. Ngày 14 tháng 5 năm 1908, đoàn biểu tình kéo ra đến cầu Tam Giang – cửa ngõ vào tỉnh lỵ Sông Cầu, thì lại vấp phải quân Pháp. Thêm hàng trăm người bị giết và hàng chục người bị bắt giam. Đến lúc này cuộc biểu tình chống sưu thuế ở Phú Yên mới hoàn toàn tan rã.
* Tại Thừa Thiên Huế
Đầu tháng 4, nhân dân Thừa Thiên biểu tình. Công sứ Pháp ở tỉnh Thừa Thiên là Gariod, Phó công sứ Boudineau liền điều lính tới nổ súng ngăn chặn. Bị cản trở, đoàn người bị áp bức liền xông lên đánh nhau với đội lính, rồi bắt trói viên phó lãnh binh và bắt viên Phủ doãn phải dẫn đầu đoàn biểu tình (11 tháng 4). Trên đường đến Kinh đô Huế, một số nơi đã bố trí sẵn để cắt tóc ngắn và khâu áo ngắn lại (tức theo xu hướng cải cách) cho những ai còn búi tóc và mặc áo dài.
Để cổ vũ phong trào, học sinh trường Quốc học và trường Quốc Tử Giám ở Huế còn đến đọc thơ ca, hò vè mang nội dung yêu nước. Lo ngại, thực dân Pháp phải đưa vua Duy Tân (khi ấy mới 8 tuổi) ra phủ dụ nhưng không có tác dụng. Cuối cùng, họ phải điều lính đến đàn áp. Cuộc xô xát lớn đã diễn ra ở đầu cầu Trường Tiền, làm nhiều người bị bắt và bị trúng đạn. Đến khi ấy, mới giải tán được.
* Tại Hà Tĩnh
Một số chí sĩ yêu nước đã hưởng ứng tích cực cuộc biểu tình chống sưu thuế của nhân dân Quảng Nam. Họ giả làm người đi buôn quế để đến các phủ huyện trong tỉnh lan truyền các bản Tuyên cáo, vận động nhân dân tham gia biểu tình chống sưu thuế. Người tích cực tham gia phong trào này là nhà nho yêu nước Nguyễn Hàng Chi, Trần Ty, Phan Hiệp, Nguyễn Lương Nhân. Những chí sĩ yêu nước đã cùng nhân dân kéo đến huyện đường huyện Can Lộc chất vấn tri huyện Nguyễn Doãn Văn khiến y phải bỏ trốn.
Ở Hà Tĩnh, sau huyện Can Lộc thì các huyện Nghi Xuân, Thạch Hà cũng tổ chức biểu tình chống sưu cao thuế nặng.
Sau một thời gian, phong trào chống sưu thuế ở Hà Tĩnh cũng bị chính quyền phong kiến tay sai đàn áp. Một số yếu nhân của phong trào cũng bị bắt, Nguyễn Hàng Chi bị xử trảm.
* Tại Nghệ An
Phong trào chống sưu thuế ở Nghệ An diễn ra chủ yếu ở huyện Thanh Chương. Người khởi xướng cho phong trào là Phạm Ngô Đồng. Ông đã viết đơn chống sưu cao thuế nặng và đem dán ở nhiều chợ, thị trấn trong huyện; hô hào nhân dân biểu tình đòi giảm thuế, xóa sưu. Một số hào lý trong vùng đồng tình hưởng ứng. Về sau, Phạm Ngô Đồng bị bắt và bị đi đày chung thân ở Lao Bảo.
* Tại Thanh Hóa
Ở tỉnh này, tuy không có cuộc biểu tình của nhân dân chống sưu thuế nổ ra nhưng một số nhà khoa bảng hưởng ứng, tham gia phong trào Duy Tân đã vận động nhân dân đứng lên chống sưu thuế, lập thương hội, viết văn bản niêm yết ở những nơi đông người qua lại. Đứng đầu nhóm các nhà khoa bảng này là Nguyễn Thượng Hiền.
Sau đó, lấy cớ các vụ biểu tình của nhân dân các tỉnh miền Trung chống sưu thuế, Tổng đốc Thanh Hóa đã kết án xử trảm hoặc lưu đày các nhà khoa bảng tham gia phong trào.
3. Ý nghĩa lịch sử
Phong trào chống sưu cao, thuế nặng ở Quảng Nam và các tỉnh miền Trung năm 1908 cuối cùng bị thất bại nhưng đây là một sự kiện không chỉ gắn liền với mảnh đất Đại Lộc và tỉnh Quảng Nam mà có thể nói đó là một trong những sự kiện của lịch sử giải phóng dân tộc và lịch sử cách mạng nói chung. Phong trào để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho các cuộc đấu tranh giai đoạn tiếp theo, nhất là việc tập hợp, phát động giai cấp nông dân – một lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam trong cuộc đấu tranh sinh tử với thực dân, đế quốc để giành độc lập, tự do cũng như trong xây dựng đất nước thời kỳ hội nhập và phát triển.
-------------